Diễn biến Trận_Singapore

Cuộc đổ bộ của quân Nhật

Việc con đường nối bị phá hủy đã khiến cuộc tấn công của Nhật Bản bị hoãn lại trong một tuần. Lúc 8:30 tối ngày 8 tháng 2, các xạ thủ súng máy Úc bắt đầu khai hỏa vào những đoàn tàu chuyên chở đang đưa tốp tấn công đầu tiên gồm 4.000 lính Nhật từ 2 sư đoàn 5 và 18 tiến vào đảo Singapore. Mục tiêu của quân Nhật là bãi biển Sarimbun, nơi có lữ đoàn Úc số 22 do lữ đoàn trưởng Harold Taylor trấn giữ.

Những cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra trong suốt ngày hôm đó, quân Nhật nhờ có ưu thế về pháo binh, máy baytình báo cùng với quân số đổ bộ lên bờ ngày càng nhiều đã dần chiếm ưu thế. Tại phía tây bắc hòn đảo, quân Nhật đã lợi dụng được khoảng hở bên trong phòng tuyến của Đồng Minh (như các sông ngòi và rạch) để lẻn vào. Đến nửa đêm, 2 tiê uđoàn Úc đã mất liên lạc với nhau và lữ đoàn 22 buộc phải rút lui. Lúc 1 giờ sáng, lính Nhật đã đổ bộ lên phía tây bắc đảo thành công và những người lính Úc cuối cùng đã chạy khỏi. Bình minh ngày 9 tháng 2, các lực lượng của lữ đoàn 22 hầu hết đã bỏ chạy hoặc bị bao vây, tiểu đoàn 2/18 Úc đã mất hơn nửa quân số sau cuộc giao tranh này.

Đến hết nga y 9 tháng 2, đã có hơn 10.000 lính Nhật đã đổ bộ lên Singapore.

Các cuộc không chiến

Lính cứu hỏa đang khắc phục hậu quả đợt oanh tạc của không quân Nhật vào Singapore ngày 8 tháng 2 năm 1942Dân thường Mã Lai đang bước qua xác một chiếc Hawker Hurricane bị bắn rơi ngày 8 tháng 2 năm 1942

Về không lực, Đồng Minh chỉ có duy nhất 1 phi đội là phi đội 232 không quân Hoàng gia Anh tại sân bay Kallang. Các sân bay khác tại Tengah, SeletarSembawang đều nằm trong tầm pháo kích của người Nhật tại Johore Bahru nên sân bay Kallang là đường băng duy nhất còn hoạt động được. Lực lượng không quân này hoạt động tương đối tốt, nhưng đôi khi bị áp đảo về số lượng và chất lượng bởi máy bay Nhật Mitsubishi A6M Zero — phi đội chịu nhiều tổn thất trên cả trên không và mặt đất trong suốt tháng 2. Loại máy bay tốt nhất có thể tin tưởng được là Hawker Hurricane, nhưng chỉ có 10 chiếc còn ở Singapore khi quân Nhật tấn công.

Từ ngày 8 tháng 12, Singapore đã phải chịu những đợt không kích của các máy bay ném bom tầm xa Nhật như Mitsubishi G3M ("Nell") và Mitsubishi G4M ("Betty") xuất phát từ các căn cứ ở Đông Dương. Trong tháng 12, 51 máy bay tiêm kích Hurricane Mk II đã được đóng thùng gửi sang Singapore cùng với 24 phi công, tập hợp lại thành 5 phi đội. Tất cả số máy bay và phi công này có mặt vào ngày 3 tháng 1 năm 1942 khi mà các phi đoàn Brewster Buffalo đã hoàn toàn bị lấn áp. Phi đoàn 232 được thành lập và phi đoàn 448 New Zealand được chuyển từ sử dụng Buffalo sang Hurricanes. Phi đoàn 232 bắt đầu hoạt động từ ngày 20 tháng 1 và đã bắn rơi được 3 máy bay Nakajima Ki-43 trong ngày này,[5] bù lại 3 chiếc Hurricanes đã bị hạ trong đó có chiếc máy bay của Thiếu tá Lawrence Landels. Tuy nhiên, giống như những chiếc Buffalo trước đây, những chiếc Hurricane bắt đầu chịu đựng thiệt hại nặng nề khi các trận không chiến ngày càng căng thẳng.

Từ ngày 27 đến 30 tháng 1, thêm 48 chiếc Hurricane (MkIIA) nữa đến cùng Không đoàn 226 (gồm bốn phi đội) trên hàng không mẫu hạm HMS Indomitable, từ đó chúng bay đến các sân bay có tên mã là P1 và P2, gần Palembang, Sumatra trong lãnh thổ Đông Ấn Hà Lan. Vì không có được các hệ thống cảnh báo sớm thích hợp, các cuộc không kích của Nhật đã phá hủy 30 chiếc Hurricane trên mặt đất ở Sumatra, đa số bị mất trong một cuộc không kích vào ngày 7 tháng 2.

Sáng ngày 8 tháng 2, một số trận không chiến đã diễn ra tại bãi biển Sarimbun và khu vực phía tây. Trong cuộc chạm trán đầu tiên, 10 chiếc Hurricane cuối cùng của phi đoàn 232 đã cất cánh từ sân bay Kallang dđể ngăn chặn một đội hình máy bay Nhật gồm 84 chiếc, bay từ Johore để yểm trợ về đường không cho cuộc đổ bộ. Trong hai lần xuất kích, các máy bay Hurricane đã bắn rơi sáu máy bay Nhật trong khi chỉ tổn thất một.[6]

Các trận không chiến đã diễn ra trên hòn đảo suốt cả buổi sáng. Đến lục chập tối, các máy bay Hurricane còn sót lại đã rút về Palembang, Sumatra khi được sự đồng ý của Percival vì Kallang không còn có thể sử dụng được làm căn cứ nữa. Giờ đây, Kallang chỉ còn đơn thuần là một bãi đáp máy bay. Kể từ đó, không còn một máy bay Đồng minh nào trên bầu trời Singapore, không quân Nhật đã hoàn toàn làm chủ bầu trời.[7]

Ngày thứ hai

Percival tin rằng những cuộc đổ bộ tiếp theo sẽ diễn ra ở phía đông bắc nên ông đã không cho tăng viện lữ đoàn 22 Úc. Trong ngày 9 tháng 2, cuộc đổ bộ của quân Nhật chuyển về hướng tây nam, tại đây họ chạm trán lữ đoàn 44 Ấn Độ. Các lực lượng Đồng minh buộc phải rút về phía đông. Bennett quyết định thành lập tuyến phòng thủ thứ hai, được gọi là "Phòng tuyến Jurong", bao quanh Bulim, phía đông sân bay Tenga và phía bắc Jurong.

Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 27 Úc Duncan Maxwell bố trí tại phía bắc, chạm trán lực lượng Vệ binh Hoàng gia Nhật vào lúc 10 giờ đêm ngày 9 tháng 2. Cuộc giao tranh này diễn ra với thương vong lớn của quân Nhật bởi hỏa lực từ súng máysúng cối quân Úc. Tệ hơn nữa, một lượng dầu tràn vào nước bắt lửa càng làm tăng thêm khó khăn cho quân Nhật. Chỉ một số lượng nhỏ Vệ binh đến được bờ biển và thiết lập một đầu cầu mỏng manh.

Tuy nhiên, những vấn đề về chỉ đạo và quản lý đã làm đổ vỡ tuyến phòng thủ của Đồng minh. Maxwell nhận ra rằng lữ đoàn 22 đang chịu nhiều áp lực nhưng không cách nào liên lạc được với Taylor, đồng thời ông cũng sợ viễn cảnh bị bao vây. Bất chấp thành công lữ đoàn vừa đạt được và lệnh của Bennett, Maxwell ra lệnh rút quân từ Kranji. Hành động này đã khiến quân Đồng minh mất quyền kiểm soát vùng bờ biển sát phía tây con đường nối.

Quân Nhật phá vỡ phòng tuyến

Việc quân Úc rút khỏi Kranji đã tạo điều kiện cho các lực lượng xe tăng-xe thiết giáp của Vệ binh Hoàng gia Nhật đổ bộ lên bờ. Xe tăng với những thiết bị giúp nổi được nhanh chóng vượt qua eo biển tiến xuống phía nam, dọc theo đường Woodlands. Điều này đã giúp tướng Yamashita điều quân đánh vào cạnh sườn lữ đoàn 22 tại phòng tuyến Jurong. Tuy nhiên, lực lượng Vệ binh Hoàng gia Nhật đã bỏ lỡ cơ hội tiến vào trung tâm thành phố một mình.

Đêm ngày 10 tháng 2, tướng Archibald Wavell ra lệnh chuyển toàn bộ lực lượng không quân còn lại ở Singapore sang Đông Ấn Hà Lan. Vào thời điểm đó, sân bay Kallang đã bị oanh tạc nên không còn sử dụng được bao lâu nữa. Đêm ngày 10 tháng 2, thủ tướng Anh Winston Churchill đã liên lạc với tướng Wavell kêu gọi toàn bộ lực lượng Anh ở Singapore nên chiến đấu đến cùng bằng bất cứ giá nào vì danh dự của đế quốc và quân đội Anh.[8] Wavell sau đó đã bảo Percival phải chiến đấu cuối cùng và không nên đầu hàng.

Ngày 11 tháng 2, nhiên liệuđạn dược của quân Nhật đã thiếu một cách trầm trọng. Tuy nhiên Yamashita vẫn tiếp tục ra lệnh tấn công và gửi thư dụ hàng đến Percival. Còn với quân Anh, lữ đoàn 22 Úc sau những trận đánh ác liệt của quân Nhật giờ chỉ còn vài trăm người. Trong ngày này, quân Nhật đã chiếm Bukit Timah sau thắng lợi ở trận Bukit Timah, chiếm được hầu hết đạn dược và nhiên liệu của Đồng minh đồng thời kiểm soát được nguồn cung cấp nước chủ yếu của thành phố.

Vào ngày 12 tháng 2, phòng tuyến của Đồng minh được ổn định quanh một khu vực nhỏ tại đông nam hòn đảo. Các đơn vị khác, trong đó có lữ đoàn bộ binh Mã Lai số 1 đã tham gia vào trận chiến. 1 trung đội Mã Lai, do trung úy Adnan bin Saidi chỉ huy đã cầm chân quân Nhật trong 2 ngày tại trận Pasir Panjang. Đơn vị này bảo vệ Bukit Chandu, khu vực chứa số lượng đạn dược dự trữ chủ yếu của Đồng minh và đầu hàng vào ngày 14 tháng 2. Adnan bị quân Nhật xử tử sau khi quân lính dưới quyền ông đã bỏ chạy hết.

Ngày 13 tháng 2, khi tình hình ngày càng trở nên tồi tệ, nhiều sĩ quan đã khuyên Percival đầu hàng để giảm thiểu thương vong của dân thường nhưng Percival đã từ chối. Cũng trong ngày này, cảnh sát quân sự Anh đã đem hành quyết kẻ phản bội, đại úy Patrick Heenan, sĩ quan liên lạc hàng không trong quân đội Ấn tại cảng Keppel, phía nam Singapore và xác bị quăng xuống biển.[9] Cơ quan tình báo Nhật đã tuyển mộ Heenan trước chiến tranh và ông này đã sử dụng radio để chỉ chỗ cho quân Nhật các sân bay của Đồng minh ở phía Bắc Mã Lai. Heenan bị bắt ngày 10 tháng 12 và bị đưa ra xét xử ở tòa án quân sự vào tháng 1.

Ngày 14 tháng 2, các lực lượng còn lại của Đồng minh vẫn tiếp tục chiến đấu. Đường tiếp tế nước duy nhất của Singapore là một trạm bơm nước chỉ còn cách vị trí của quân Nhật chừng nửa dậm. Nhiều nơi trong thành phố đã không có nước dùng. Thương vong của dân thường đã lên đến gần 1 triệu người và họ tập trung đông đúc tại các khu vực quân Đồng minh còn kiểm soát. Cường độ các cuộc ném bom và pháo kích của quân Nhật vẫn không hề giảm.

Vụ thảm sát quân y viện Alexandra

Lúc 1 giờ chiều ngày 14 tháng 2, quân Nhật tiến vào quân y viện Alexandra.[10]. Một người trung úy cầm lá cờ trắng đến thay mặt nói chuyện đã bị lính Nhật đâm chết[11] Mặc dù không gặp bất kì một sự kháng cự nào nhưng quân Nhật vẫn tấn công và giết hại các nhân viên y tế và một số bệnh nhân, trong đó có cả một hạ sĩ.[12] Ngày hôm sau, khoảng 200 nhân viên và bệnh nhân nam, một số đang bị thương, bị ra lệnh phải đi bộ 400 m để đến một khu công nghiệp. Những ai ngã trên đường đi đều bị lính Nhật dùng lưỡi lê đâm chết. Sau đó, họ bị nhốt trong các căn phòng chật chội, kín khí và bị giam cầm qua đêm mà không được uống nước. Một số người chết trong đêm vì vết thương mà họ mang sẵn, những người còn sống sót đều bị đâm chết bằng lưỡi lê vào sáng hôm sau.[13] Những ai sống sót sau cuộc thảm sát này chạy về thành phố và miêu tả lại tội ác quân Nhật khiến cho tinh thần nhân dân thành phố càng xuống thấp.

Singapore thất thủ

Ngày 14 tháng 2, tướng Wavell gửi điện cho thủ tướng Churchill:

Đã nhận được điện của Percival cho hay là kẻ thù đang tiến đến rất gần thành phố và quân đội của ông ta không còn khả năng phản công thêm gì được nữa. Đã lệnh cho ông ta tiếp tục giáng lên quân thù những tổn thất lớn nhất thong qua việc chiến đấu trong thành phố, nếu cần. Tuy nhiên e rằng sự kháng cự khó có khả năng kéo dài nhiều được.[14]

Ngày mùng 1 Tết Nhâm Ngọ 1942 (ngày 15 tháng 2), Singapore đã bị bao trùm bởi khói lửa và không khí chết chóc của chiến tranh thay cho không khí tươi vui thường lệ. Sáng ngày hôm đó, quân Nhật đã chọc thủng phòng tuyến cuối cùng của Đồng minh. Quân Đồng minh đã cạn lương thực và cả đạn dược. Các pháo cao xạ đã hết đạn nên không còn khả năng ngăn chặn bất kì một cuộc không kích nào nữa của quân Nhật gây ra thương vong lớn ở trung tâm thành phố. [15]

Vào lúc 9 giờ 30 sáng, Arthur Percival tổ chức một cuộc họp tại pháo đài Canning với những sĩ quan cấp cao. Hai phương án đã được ông đưa ra: tổ chức ngay một cuộc phản công để chiếm lại bể chứa nước và kho lương thực tại Bukit Timah hoặc là đầu hàng. Mọi người có mặt đều đồng ý là không thể tổ chức phản công. Cuối cùng, Percival đã chọn đầu hàng quân Nhật. [15]

Một phái đoàn đã được lựa chọn để đưa đến bộ chỉ huy Nhật: một sĩ quan tham mưu thâm niên, một thư ký Bộ thuộc địa và một người phiên dịch. Họ ngồi trong một chiếc xe hơi, mang theo quốc kì Anh và một lá cờ trắng để đầu hàng. Tuy nhiên sau đó phái đoàn này quay trở lại sau khi tướng Tomoyuki Yamashita đề nghị đích thân Percival và các sĩ quan tham mưu phải đến nhà máy xe hơi Ford để ký kết các điều kiện đầu hàng. Một yêu cầu nữa được đặt ra là quốc kì Nhật phải được treo lên tại tòa nhà cao nhất ở Singapore, tòa nhà Cathay, càng nhanh càng tốt để tăng tác động tâm lý của cuộc đầu hàng. Lúc 4 giờ 45 chiều, tướng Percival xuất hiện.[16]

Yamashita hỏi Percival có đồng ý đầu hàng vô điều kiện không. Percival trả lời đồng ý. Yamashita đặt câu hỏi thứ hai: Quân Anh có giữ tù binh Nhật nào không ?. Percival cho biết không có tù binh Nhật. Ðến đó Yamashita đặt văn bản đầu hàng trước mặt Percival. Percival đọc văn kiện xong và yêu cầu ngày hôm sau mới ký. Yamashita không thể chờ đợi lâu hơn nữa, vì e rằng quân Anh có thể nhận ra nhược điểm của mình, nên Yamashita yêu cầu Percival phải ký ngay, nếu không cuộc chiến sẽ tiếp tục ngay tức khắc. Viên thông ngôn Nhật nói không được lưu loát lắm nên dễ khiến Yamashita nổi nóng. Yamashita hét vào mặt người thông ngôn: "Quân Anh có ký hay không? Trả lời Có hay Không![17]

Lính Nhật diễu binh mừng chiến thắng qua Quảng trường Fullerton.

Ðến đây Percival giật mình hoảng sợ, và trả lời đồng ý ký ngay. Văn kiện đầu hàng được ký vào lúc 6 giờ 10 phu tchiều ngày hôm đó. Những điều khoản đầu hàng bao gồm:

  • Các lực lượng vũ trang tại Singapore (lục quân, hải quân, không quân) đều phải đầu hàng vô điều kiện
  • Lệnh ngừng bắn có hiệu lực từ 8 giờ 30 tối ngày 15 tháng 2
  • Mọi người lính phải giữ nguyên vị trí trước khi có lệnh mới
  • Mọi vũ khí, thiết bị quân sự, tàu thuyền, máy bay và tài liệu mật phải được giữ nguyên vẹn
  • Để tránh tình trạng cướp bóc, trong thời gian các lực lượng vũ trang tạm thời rút khỏi Singapore, 1 lực lượng gồm 1000 lính Anh có nhiệm vụ giữ gìn trật tự cho đến khi quân Nhật vào tiếp quản

Trước đó Percival đã ra lệnh cho tiêu hủy toàn bộ các thiết bị kỹ thuật, mật mã, tài liệu bí mật và cả pháo hạng nặng. [18] Yamashita đồng ý là sẽ không còn tàu thuyền hay máy bay tại Singapore. Ông cũng có trách nhiệm đảm bảo cho sinh mạng của toàn bộ binh lính AnhÚc, cũng như dân thường Anh sống tại Singapore.

Tướng Gordon Bennett, sau khi giao quyền chỉ huy sư đoàn 8 lại cho một lữ đoàn trưởng, đã cùng với một số sĩ quan tham mưu của mình trưng dụng một chiếc thuyền nhỏ để trở về Úc chứ không chịu đầu hàng quân Nhật.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Singapore http://www.awm.gov.au/journal/j37/indians.htm http://www.abc.net.au/4corners/specials/noprisoner... http://www.david-pye.com/index.php?page=pow http://books.google.com/books?id=u5KgAAAACAAJ&dq=M... http://historyanimated.com/pacificwaranimated/inde... http://www.j-aircraft.com/captured/capturedby/hurr... http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/articles... http://orbat.com/site/history/historical/malaysia/... http://otterman.wordpress.com/2008/02/08/battle-of... http://www.uhpress.hawaii.edu/cart/shopcore/?db_na...